Bảo đảm quyền bào chữa của Bị can, Bị cáo tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự ( TTHS) Việt Nam. Việc thực hiện tốt các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp hoạt động tố tụng được tiến hành đúng trình tự, đảm bảo việc xét xử công minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Trong TTHS, giai đoạn xét xử được coi là giai đoạn trung tâm, nơi mà mọi tình tiết của vụ án được đưa ra đánh giá, xem xét một cách toàn diện và trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa luật sư bào chữa và đại diện viện kiểm soát giữ quyền công tố tại phiên tòa, tòa án ra bản án, quyết định tuyên 1 người có tội hay không.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn quan trong trong thủ tục tố tụng tại tòa án. Đối với vụ án hình sự tại phiên tòa sơ thẩm , viện kiểm sát là cơ quan giữ quyền công tố sẽ thực hiện việc buộc tội bị cáo, hội đồng xét xử dựa trên chưng cứ đã được điều tả tiến hành quá trình xét hỏi,tranh luận tại phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định cuối cùng, còn luật sư bào chữa cho bị cáo sẽ được thực hiện việc tranh luận đối với cáo buộc của VKS cũng như với phía bị hại.
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp thì hiện nay dù 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập được đoàn luật sư với gần 9.500 luật sư nhưng chỉ có 20% các vụ án hình sự trong cả nước có luật sư tham gia. Đây là một con số rất hạn chế, thể hiện sự bất cập trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân:
Trước tiên là hoạt động cấp giấy chứng nhận bào chữa của cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 56, Đ 57 của bộ luật TTHS và điều 27 Bộ luật Luật sư. Khoản 4 Đ 56 Bộ luật TTHS quy định : “ Trong thời hạn 3 ngày , kể từ ngày nhận được đề nghi của người bào chữa , cơ quan điều tra, viện kiếm sát, tòa án phải xem xét cấp GCNBC để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24h , kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa. Nếu từ chối cấp GCN thì phải nêu rõ lý do. Quy định là như vậy nhưng việc thực hiện gặp rất nhiều khó khăn, phiền hà cho luật sư bào chữa bởi các thủ tục giao và nhận GCNBC được thực hiện không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài ra Luật Luật sư cũng quy định là GCNBC có giá trị trong giai đoạn tố tụng , tuy nhiên hiện nay nhiều nơi , khi kết thúc giai đoạn tố tụng , hồ sơ vụ án chuyển sang cơ quan tiến hành tố tụng khác thì luật sư lại phải làm thủ tục xin cấp GCNBC
Thứ hai là việc luât sư tiếp xúc với thân chủ của mình.
Điểm a, b và e khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS quy định “Luật sư có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam”
Thông tư 70/2011/TT- BCA cũng quy định: “ Điều tra viên phải giao các quyết định tố tụng liên quan đến người được bào chữa cho người bào chữa và thông báo cách thức liên lạc của Cơ quan điều tra, Điều tra viên với họ khi cần thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can. Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa, nếu từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì phải có văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa”
Quy định như vậy nhưng trên thực tế, việc luật sư được gặp bị can đang bị tam giam còn gặp nhiều khó khăn, nhiều trường hợp bị từ chối do điều tra viên đi vắng mặt hoặc thông báo thời gian quá gấp khiến luật sư không thể thu xếp được.
Thứ 3, Điều 64, 65 và 66 Bộ luật TTHS chỉ quy định về quyền điều tra, thu thập và đánh giá chứng cứ thuộc về cơ quan tố tụng mà không quy định quyền này của các luật sư cũng không đề cập đến cơ quan nhà nước tiến hành tố tụng cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của luật sư. Trong nhiều trường hợp, cơ quan điều tra đã không mời luật sư tham gia hoạt động khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra.
Thứ 4, một trong những hoạt động quan trong nhất tại phiên tòa là hoạt động tranh luận giữa luật sư và kiểm sát viên. Bộ luật TTHS có nhiều quy định đảm bảo cho việc buộc tội và gỡ tội được tranh tụng bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ dù TTHS Việt Nam không phải là kiểu tố tụng tranh tụng. Điều 210 Bộ luật TTHS cho phép các bên buộc tội và gỡ tội có quyền bình đẳng đưa ra các chứng cứ, tài liệu trước tòa. Điều 218 của BLTTHS quy định rõ nguyên tắc tranh tụng ở việc quy định thủ tục đối đáp, trong đó có việc bị cáo có quyền trình bày ý kiến của bản luận tội và đưa ra đề nghị của mình. Điều luật cũng bắt buộc viện kiếm sát phải đưa ra lập luận với từng ý kiến. Đây là trách nhiệm của bên buộc tội tại phiên tòa, phải tranh luận toàn diện, đầy đủ, bình đẳng với bên gỡ tội, không được tránh hoặc trả lời một cách áp đặt và thiếu trách nhiệm kiểu như “ giữ nguyên quan điểm truy tố” mà không đưa ra lập luận để bảo vệ quan điểm ý kiến của mình. Tuy nhiên trên thực tế tại nhiều phiên tòa, việc tranh luận còn nhiều hạn chế, có trường hợp khi đối đáp, viện kiểm sát chỉ cho rằng tranh luận của luật sư là không có căn cứ nên đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận.
Những bất cập nói trên ảnh hưởng tiêu cực đến quyền bào chữa của người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy phải bổ sung các quy định trong Bộ luật TTHS là vô cùng cần thiết và phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp chiến lược phát triển nghề luật sư, trong đó cải cách tư pháp hình sự đang là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sau hơn 15 năm thi hành luật TTHS đã bộc lộ nhiều hạn chế và thiếu sót của các quy định liên quan đến chuyện bào chữa trong xử sơ thẩm hình sự, do vậy cần được sửa đổi và bổ sung theo hướng:
Bỏ thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa
Quyền bào chữa là một quyền đã được hiến pháp Việt Nam ghi nhận, chủ thể thực hiện quyền gồm có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và luật sư. Luật sư muốn tham gia bào chữa phải được cơ quan tiến hành tố tụng cấp GCNBC là vô lý, vì đã là quyền thì không thể bị lệ thuộc vào sự đồng ý của chủ thể khác.
Không được giới hạn số lần gặp cũng như thời gian gặp của luật sư với người bị tạm giam, bị can , bị cáo
Đây là một trong những cản trở lớn nhất trong giai đoạn điều tra, khi luật sư bào chữa không được tiếp xúc riêng tư để trao đổi với thân chủ hay bị hạn chế số lần gặp và thời gian gặp. Bộ luật TTHS cần sửa đổi bổ sung theo hướng: Cơ quan điều tra không được gây ra bất kì trở ngại nào trong việc gặp gỡ và tiếp xúc với thân chủ trong trại giam và không được giới hạn số lần gặp cũng như thời gian gặp của Luật sư với người bị tạm giam bị can, bị cáo.
Hoàn thiện quy định về chứng cứ tại khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS
Bộ luật TTHS quy định về quyền được đưa ra chứng cứ của bị can, bị cáo thể hiện sự bất bình đẳng giữa bên gỡ tội và bên buộc tội và hạn chế quyền được chứng minh vô tội của người bị buộc tội. Các điều 48,49,50,58 quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa cho thấy luật chỉ cho phép người này đưa ra , thu thập tài liệu đồ vật mà không khẳng định những đồ vật, tài liệu này có phải là chứng cứ hay không? Việc không khẳng định và không cho phép bị can, bị cáo đưa ra chứng cứ do bị hạn chế bới Điều 64 Bộ luật TTHS về chứng cứ.
Theo đó : “ Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Như vậy việc thu thập chứng cứ, quyền được thu thập chứng cứ và đánh giá một tài liệu, một đò vật nào đó có phải là chứng cứ hay không phụ thuộc vào ý chí của bên buộc tội gồm cơ quan điều tra, VKS, tòa án. Việc xếp tòa án vào bên buộc tội chứ không phải chứ không phải bên trọng tài với chức năng đánh giá một tài liệu do các bên buộc tội và gỡ tội đưa ra có phải là chứng cứ hay không sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng khi vì lý do nào đó mà họ bỏ qua, không ghi nhận và xem xét những tài liệu và đồ vật mà người bị buộc tội và người bào chữa cung cấp.
Mặt khác, luật cho phép luật sư bào chữa được thu thập chứng cứ nhưng thiếu hẳn cơ chế, thủ tục để họ thực hiện quyền này. Vấn đề đặt ra ở đây là bên gỡ tội có bị giàng buộc buộc bởi tính hợp pháp của chứng cứ hay không? Để đảm bảo quyền bào chữa, cần quy định tính hợp pháp của chứng cứ có giá trị giằng buộc đối với bên buộc tội với tư cách đại diện cho Nhà nước mà không giằng buộc với bên gỡ tội. Bị can, bị cáo và luật sư có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để thu thập chứng cứ, tài liệu. Những vật này vẫn được coi là chứng cứ nếu có giá trị chứng minh, đặc biệt là có giá trị chứng minh cho sự vô tội của bị can, bị cáo. Do đó cần sửa đổi về chứng cứ như sau: Chứng cứ là những gì có thật, do các bên buộc tội và gỡ tội đưa ra có giá trị chứng minh có hay không phạm tội, người phạm tội và các vấn đề khác của vụ án hình sự.
Bỏ quy định xử vắng mặt bị cáo tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật TTHS
Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;
b) Bị cáo đang ởnước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ.
Quy định này là chưa hợp lý, bởi lẽ bị cáo là người bị buộc tội và lời khai của bị cáo đề cập đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án, cũng như các tình tiết khác cần cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, cho nên đây là nguồn chứng cứ quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án. Do vậy, sự vắng mặt của bị cáo đương nhiên gây cản trở cho việc xét xử. Mặt khác nếu xét xử vắng mặt bị cáo đồng nghĩa với việc tước đi quyền tự bào chữa của họ trong trường hợp bị cáo tự bà chữa mà không nhờ tới sự bào chữa của luật sư.
Bỏ quy định “ Nếu người bào chữa vắng mặt tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử” tại Điều 190 Bộ luật TTHS
Điều 190 Bộ luật TTHS quy định về sụ có mặt của người bào chữa như sau : “Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Trong trường hợp bắt buộc phải có luật sư bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”.
Quy định như vậy là không hợp lý, vì bản án của tòa án là kết quả của việc xem xét đầy đủ, khách quan và toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, những chứng cứ và tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa cũng như kết quả tranh luận giữa luật sư và kiểm sát viên. Nếu xét xử mà không có người bào chữa thì bị cáo sẽ mất chỗ dựa, không thể tự mình tranh luận với kiểm sát viên cũng như chứng minh sự vô tội hay giảm nhẹ trách nhiệm của mình. Do đó cần phải quy định rõ sự có mặt của luật sư bào chữa là bắt buộc, nếu luật sư vắng mặt thì hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
Quy định nguyên tắc tranh tụng và hoàn thiện quy định về đối đáp tại Điều 218 Bộ luật TTHS
Bộ luật TTHS được xây dựng trên nền tảng mô hình tố tụng thẩm vấn, tuy chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc, nhưng tinh thần của nguyên tắc này đã được thể hiện trong nhiều quy định của Bộ luật. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng. Đến Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng nhấn mạnh vấn đề này. Do đó, cần đưa tranh tụng thành một nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật TTHS, đồng thời làm tư tưởng chủ đạo để sửa đôi,bổ sung các thủ tục, quy định tương ứng trong Bộ luật, nhất là các thủ tục tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự phù hợp với Điều 103 Hiến pháp 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
Nguyên tắc tranh tụng được quy định sẽ giúp quá trình tố tụng diễn ra dân chủ hơn, các quyền con người của cá nhân người phạm tội được bảo đảm; việc buộc tội, gỡ tội rõ ràng, minh bạch. Nguyên tắc này đòi hỏi chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử phải có sự phân định rạch ròi; góp phần hỗ trợ thực hiện quyền bào chữa.
Đồng thời với việc quy định nguyên tắc tranh tụng, cần hoàn thiện quy định về đối đáp đối đáp tại Điều 218 Bộ luật TTHS. Đoạn thứ 3 của điều 218 của Bộ luật TTHS quy định: “ chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được kiểm sát viên tranh luận”. Quy định này chưa đáp ứng nguyên tắc tranh tụng trong TTHS cũng như chưa quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW và nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng. Do vậy, cần sửa đổi đoạn thứ ba của Điều 218 thành: “ Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu kiểm sát vên và những người tham gia tố tụng phải đối đáp, tranh luận về tất cả các vấn đề mà tòa án phải xem xét và giải quyết trong bản án”.
Nguồn tạp chí luật sư số 8/2015
Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư Hà Nội
Luật sư Nguyễn Minh Long
Điện thoại: 098 301 9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com