Điều 380 Bộ luật Hình sự quy định về tội không chấp hành án
Chi tiết Điều 380 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017
Điều 380. Tội không chấp hành án
- Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ;
b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
c) Tẩu tán tài sản.
3. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Phân tích 4 yếu tố cấu thành tội phạm:
– Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, là người có đủ điều kiện về độ tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi) và có năng lực trách nhiệm hình sự. Và chủ thể của tội này phải là người có nghĩa vụ phải chấp hành các bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật như bị cáo trong vụ án hình sự hoặc là các đương sự trong vụ án dân sự,…
– Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội không chấp hành án được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội biết mình có nghĩa vụ phải chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; và cũng biết đã có biện pháp cưỡng chế cần thiết được áp dụng để buộc họ phải chấp hành án hoặc quyết định của Toà án nhưng vẫn không chịu chấp hành bản án hoặc quyết định đó.
Người phạm tội có thể có những động cơ khác nhau thúc đẩy hành vi phạm tội. Tuy nhiên, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
– Khách thể của tội phạm:
Hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành án.
– Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội này đòi hỏi dấu hiệu hành vi dưới hình thức “không hành động”, đó là hành vi không chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người không chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu việc không thực hiện đó còn xảy ra sau khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết. Tức là, trường hợp không chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án trước khi bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành chưa bị coi là phạm tội này.
Văn bản hướng dẫn:
Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự
Chương 8:
CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
8) Tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án (Điều 240)
+ Tội không chấp hành án là tội của người mặc dù áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết mã vẫn cố ý không chấp hành án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
+ Tội không chấp hành án là tội của người mặc dù bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết mà vẫn cố ý không chấp hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ở đây là án và quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động; án hình sự về cải tạo không giam giữ, quản chế, phạt tiền, bồi thường thiệt hại, tịch thu tài sản.
Đối với án hình sự về phạt tù, người được tại ngoại trốn thì bị truy nã và cưỡng chế chấp hành án; người bị giam trốn thì tùy từng trường hợp; bị xử lý theo Điều 84 (tội chống phá trại giam) hoặc theo Điều 245 (Tội trốn khỏi nơi giam).
Cố ý không chấp hành mặc dù bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết là những trường hợp như: bị cưỡng bức dọn đồ đạc để trả nhà hciếm igữ trái pháp mà kêu gào, xô đẩy, giằng co, gây huyên náo để chống lại; bị niêm phong, kê biên tài sản, phát mại tài sản hoặc khấu trừ lương (để buộc phải bồi thường thiệt hại, phải trả nợ hoặc thi hành việc trợ cấp nuôi con…) mà cũng có những hành vi như trên và có khi còn có những lời nói gây ảnh hưởng xấu cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội; người đang chấp hành án cải tạo không giam giữ đã được giải thích, giáo dục, răn đe vẫn không chịu nộp phần khấu trừ thu nhập do quyết định của bán án hoặc vẫn lẩn trốn sự giám sát, giáo dục của cơ quan hoặc tổ chức xã hội được giao trách nhiệm.
+ Tội cản trở việc thi hành án là tội của người có lợi dụng chức vụ, quyền hạn xúi giục hoặc tạo điều kiện cho người chấp hành án không chấp hành án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (thí dụ: không bắt người bị kết án tù đang tại ngoại đi chấp hành hình phạt; không khấu trừ tiền lương của bị đơn theo đúng chính sách pháp luật; không cho người có trách nhiệm thuộc quyền của mình thực hiện quyền lực của Nhà nước trong việc thi hành án…).
Bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nếu còn bị khiếu nại mà chưa có quyết định khác của cấp có thẩm quyền thì vẫn phải bị xử lý theo Điều 240.
+ Chủ thể của tội không chấp hành án là người có nghĩa vụ chấp hành bản án hoặc quyết định và cũng có thể là người có quyền lợi quan hệ với người có nghĩa vụ chấp hành án; chủ thể của tội cản trở việc thi hành án là người có chức vụ, quyền hạn, có trách nhiệm thi hành án (chấp hành viên hoặc người có nghĩa vụ thực hiện quyền lực của Nhà nước trong việc thi hành án… hoặc người có chức vụ, quyền hạn, nhưng không có nghĩa vụ về việc thi hành án (như cán bộ cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội…).
+ Hai tội phạm đều được thực hiện do cố ý.
====================================================
Công ty luật Dragon chuyên tư vấn pháp luật Hình sự trực tuyến online – 1900 599 979
Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội theo địa chỉ dưới đây.
- Trụ sở chính Công ty luật Dragon tại quận Cầu Giấy: Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
- VPĐD Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
- Chi nhánh văn phòng luật sư Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.
Công ty luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư tham khảo tại đây
Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long