Luật sư Hà Nội có đưa ra kiến nghị trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử với nội dung như sau:
Theo Bản Cáo trạng và Bản kết luận điều tra, ông Nguyễn Văn Minh có hành vi tham ô tài sản do:“Từ năm 2008 đến năm 2012, Nguyễn Văn Minh đã chỉ đạo ông Nguyễn Hùng Sơn – nguyên Trưởng phòng Hành chính tổ chức chủ trì và Nguyễn Thị Thùy Oanh – Kế toán trưởng kiêm Trưởng phòng tài vụ phối hợp thực hiện thủ đoạn: đưa số lao động định mức kế hoạch để tính đơn giá tiền lương vượt quá 115% số lao động thực tế sử dụng bình quân của năm trước liền kề; nâng hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu khi công ty không đủ điều kiện;không áp dụng mức lương tối thiểu chung, để xây dựng tăng dự toán tiền lương của năm công tác trái quy định”.
- Về việc ông Nguyễn Văn Minh chỉ đạo ông Nguyễn Hùng Sơn lập đơn giá tiền lương
Chúng tôi thấy rằng, cơ quan CSĐT và Viện Kiểm sát nhân dân kết luận: Ông Nguyễn Văn Minh chỉ đạo ông Nguyễn Hùng Sơn lập báo cáo, trình ông Minh ký với các nội dung chi tiết như đã nêu ở trên là chưa khách quan, một chiều. Bởi lẽ, ông Minh là giám đốc công ty, chịu trách nhiệm toàn bộ các vấn đề liên quan đến việc xây dựng dự toán, thực hiện chi và quyết toán quỹ lương của công ty. Trong đó, ông Minh phân công công việc trực tiếp phần xây dựng dự toán quỹ lương cho ông Nguyễn Hùng Sơn – Trưởng Phòng tổ chức hành chính thực hiện; việc chi trả và quyết toán quỹ lương thuộc trách nhiệm trực tiếp của bà Nguyễn Thị Thùy Oanh – Kế toán trưởng (BL 7853). Từ năm 2008 đến năm 2012, ông Minh có giao nhiệm vụ xây dựng dự toán quỹ lương cho ông Nguyễn Hùng Sơn, nhưng không chỉ đạo ông Sơn phải lập dự toán với các con số cụ thể như Bản kết luận điều tra, Cáo trạng đã nêu.
Qua các lời khai của bà Oanh và các bút lục có trong hồ sơ. Luật sư cho rằng ông Minh không chỉ đạo ông Sơn đưa các số liệu cụ thể (số lao động định biên, hệ số tăng lương tối thiểu) vào tính dự thảo đơn giá tiền lương. Việc tính toán số liệu là do Phòng Tổ chức hành chính thực hiện dựa trên các kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty như ông Minh và bà Oanh đã nêu ở trên. Chúng tôi kính đề nghị Quý Tòa kiểm tra, xác minh làm rõ lại nội dung này.
- Đối với việc nhập hai quỹ lương để chia theo hệ số thang bảng lương vào năm 2008 và 2009, Bản kết luận điều tra và Cáo trạng nêu:
- Năm 2008:
Sau khi có thông báo về việc đăng ký đơn giá tiền lương năm 2008 của Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Đồng Nai, “Nguyễn Văn Minh đã chỉ đạo Nguyễn Thị Thùy Oanh thực hiện phân phối bằng cách đem nhập 02 quỹ lương lại để chia theo hệ số trong thang bảng lương.”
- Năm 2009:
“Nguyễn Văn Minh chỉ đạo Nguyễn Thị Thùy Oanh thực hiện phân phối bằng cách đem nhập 02 quỹ lương lại để chi theo hệ số trong thang bảng lương”.
Tuy nhiên, tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 02/10/2018, ông Minh khai: “Chị Oanh – Kế toán trưởng có báo cáo tôi là cần đem nhập 02 quỹ lương của lãnh đạo và của người lao động vào để chi chung theo hệ số thang bảng lương, làm như vậy mới đảm bảo công bằng trong công ty. Vì quỹ lương người lao động khi xây dựng có thêm nhiều lao động định biên, nếu để chi riêng ra thì tiền lương của Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên sẽ thấp hơn lương của Trưởng, Phó phòng. Tôi thấy hợp lý nên đã đồng ý cho thực hiện.” (BL 7907).
Và tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 25/09/2018, khi được hỏi về việc: đem nhập chung quỹ lương của viên chức quản lý và quỹ lương của người lao động để phân phối chung trên cơ sở hệ số thang bảng lương là do bà Oanh nghĩ ra hay thực hiện theo chỉ đạo của ai?, bà Oanh đã khai như sau: “Việc này do tôi tự nghĩ ra và thực hiện. Do thời điểm năm 2008, 2009, lương của tôi được thực hiện theo đơn giá tiền lương (quỹ lương của người lao động) nếu để chi riêng 02 quỹ lương thì lương của tôi là cao nhất công ty. Do vậy, tôi thấy ái ngại về việc này và chỉ đạo chị Lê Thị Kim Lệ đem nhập vào chia chung theo hệ số lương, làm như vậy mới không có chuyện lương của Giám đốc thấp hơn lương của Trưởng phòng.” (BL8014).
Như vậy, từ những lời khai trên cho thấy: ông Nguyễn Văn Minh không chỉ đạo bà Nguyễn Thị Thùy Oanh thực hiện phân phối bằng cách đem nhập 02 quỹ lương lại để chia theo hệ số trong thang bảng lương vào năm 2008, 2009 như Bản kết luận điều tra và Cáo trạng đã nêu. Hơn nữa, việc nhập hai quỹ lương để chia theo hệ số được thể hiện trong quy chế trả lương năm 2009 của công ty và đã được sự đồng ý của Sở Lao động – Thương binh & Xã hội Đồng Nai, thông báo tới người lao động. Vì vậy, chúng tôi kính đề nghị Quý Tòa kiểm tra, xác minh làm rõ lại nội dung này.
- Đối với việc báo cáo chủ sở hữu (UBND tỉnh Đồng Nai) và xin phê duyệt đơn giá tiền lương.
Việc phân cấp cho Sở lao động thương binh xã hội và Sở tài chính cũng như căn cứ theo quy chế điều lệ hoạt động doanh nghiệp, chủ tịch hội đồng quản trị có trách nhiệm báo cáo chủ sở hữu, cũng như các bộ phận phòng ban như phòng kế toán, tài chính, hành chính tổng hợp đã được phân cấp để làm việc có các biên bản thể hiện công khai minh bạch trong từng cuộc họp và thống nhất.
Vì vậy cần làm rõ vai trò, trách nhiệm của Hội đồng thành viên và Kiểm soát viên trong việc báo cáo Chủ sở hữu các nội dung liên quan đến: Đăng ký kế hoạch sử dụng lao động; quỹ tiền lương theo đơn giá, quỹ tiền lương của viên chức quản lý trong năm; xác định quỹ tiền lương thực hiện, quỹ tiền lương của năm trước liền kề…
- Trách nhiệm của chủ sở hữu công ty – UBND tỉnh Đồng Nai:
Nếu căn cứ vào kết luận trên của Cơ quan CSĐT thì UBND tỉnh Đồng Nai, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai có dấu hiệu của hành vi “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 360 Bộ Luật hình sự năm 2005. Cơ quan CSĐT – Bộ Công an, Viện kiểm sát ND tối cao không xem xét đến trách nhiệm hình sự của UBNB tỉnh Đồng Nai, của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai trong vụ án này là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, không công bằng (khi khởi tố bà Trần Thị Dung về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” cùng với những hành vi như trên).
Luật sư chúng tôi có cơ sở cho rằng các cơ quan tố tụng xem xét, làm rõ trách nhiệm của UBND tỉnh Đồng Nai, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai trong vụ án này.
- Công ty xây dựng đơn giá tiền lương, quỹ lương, quỹ thù lao viên chức;
Xét trên góc độ đánh giá rủi ro kiểm toán, tính tuân thủ, tính phù hợp thực tiễn, kết quả hoạt động SXKD của Công ty đạt được trong năm 2012, chúng tôi cho rằng: Việc công ty xây dựng đơn giá tiền lương, quỹ lương, quỹ thù lao của viên chức quản lý năm 2012 (đã được Sở LĐTB&XH, Chi cục Tài chính doanh nghiệp thẩm định tại Biên bản thẩm định ngày 28/03/2012 và Thông báo số 385/LĐTBXH – CSLĐ ngày 29/03/2012 của Sở LĐTB&XH) và đã được Công ty kiểm toán độc lập xác nhận là có cơ sở và phù hợp với tình hình thực tế”.”
Đó là quan điểm của Kiểm toán viên về việc áp dụng mức lương tối thiểu và số lao động định biên của Công ty Xổ số Đồng Nai năm 2012. Năm 2011, Chính phủ cũng quy định về việc áp dụng mức lương tối thiểu vùng như năm 2012 tại Nghị định 70/2011/NĐ-CP ngày 22/08/2011. Như vậy, giống như quan điểm của Kiểm toán viên thì năm 2011, Công ty Xổ số Đồng Nai xây dựng đơn giá tiền lương có cơ sở và phù hợp với tình hình thực tế.
Luật sư chúng tôi đề nghị xem xét lại toàn bộ đơn giá tiền lương và quyết toán lương năm 2008 – 2012 của Công ty Xổ số Đồng Nai khi áp dụng quy định pháp luật.
Về thiệt hại thực tế của Công ty Xổ số Đồng Nai:
Như đã trình bày ở trên, hàng năm Công ty thực hiện chi trả lương đúng với công sức mà người lao động đã bỏ ra, người lao động làm ngoài giờ nhưng công ty không tính thêm lương làm ngoài giờ, vì toàn bộ lương đã được tính trong đơn giá vì vậy không thể xác định số tiền lương mà Công ty đã chi trả là thiệt hại của Công ty Xổ số Đồng Nai. Chúng tôi đề nghị Quý Tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đề nghị Cơ quan CSĐT – Bộ Công an tính toán lại toàn bộ số tiền lương chênh lệch tăng thêm không đúng quy định (có xem xét đến những đánh giá của Kiểm toán viên về việc tính đơn giá tiền lương năm 2011, 2012 như đã nêu ở trên). Hơn nữa, tại Kết luận thanh tra số: 2704/KL-UBND ngày 13/04/2015 của UBND tỉnh Đồng Nai chỉ xác định năm 2010, 2011, 2012, Công ty Xổ số Đồng Nai chi trả tiền lương chênh lệch tăng không đúng quy định với số tiền: 39.896.759.434 đồng. Theo quy định, công ty phải thực hiện giảm chi tiền lương của người lao động và viên chức quản lý trong các năm sau… việc thực hiện giảm chi tiền lương của người lao động, rất khó thực hiện, không khả thi. Do đó, không thực hiện việc giảm chi quỹ tiền lương của người lao động và viên chức quản lý năm 2010, 2011, 2012. UBND tỉnh Đồng Nai chấp thuận không thu hồi. Như vậy, đến thời điểm năm 2018 – khi ông Nguyễn Văn Minh bị khởi tố thì thiệt hại (nếu có) của Công ty, của UBND tỉnh đã không còn.
Như vậy, những hành vi của ông Minh chưa thỏa mãn mặt khách quan của tội “Tham ô”; không đủ căn cứ để xác định ông Nguyễn Văn Minh phạm tội Tham ô tài sản quy định tại Điều 353 Bộ Luật hình sự năm 2015. Và tại Báo cáo kết quả giám sát đối với ông Nguyễn Văn Minh ngày 30/05/2016 của UBND tỉnh Đồng Nai xác định: Đối với toàn bộ số tiền lương chi sai UBND tỉnh chấp thuận không thu hồi. Chủ trương chi tiền lương đều thông qua và được sự nhất trí của tập thể lãnh đạo Công ty, của Hội đồng thảnh viên (đại diện Chủ sở hữu), được sự phê duyệt của Sở Lao động và Sở Tài Chính (cơ quan chức năng của UBND tỉnh Đồng Nai). Nhận các khoản chi trên không chỉ có ông Minh mà còn có các thành viên Hội đồng thành viên, viên chức quản lý và người lao động. Căn cứ Luật Phòng chống tham nhũng (Tham ô là hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình được giao quản lý), thì chưa đủ cơ sở để xác định ông Nguyễn Văn Minh có hành vi tham ô.
- Về việc Công ty không thực hiện kiến nghị của Kiểm toán nhà nước:
Trang 15 – Cáo trạng nêu: “Mặc dù từ năm 2008, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện các sai phạm về quản lý lao động tiền lương của Công ty và kiến nghị chấn chỉnh nhưng Minh không chỉ đạo thực hiện”. Kết luận kiểm toán năm 2008 của Kiểm toán nhà nước là kết quả kiểm toán báo cáo tài chính năm 2007 của công ty. Trong quá trình điều hành công ty, ông Minh luôn yêu cầu các phòng ban thực hiện chức trách nhiệm vụ theo đúng quy chế của công ty, quy định của Nhà nước. Từ năm 2008 – 2012, Kiếm toán nhà nước không còn nhắc nhở công ty về vấn đề xây dựng đơn giá tiền lương.
Luật sư bào chữa kiến nghị:
Từ những căn cứ nêu trên chúng tôi nhận thấy rằng còn có rất nhiều vấn đề cần làm rõ trong vụ án này.
Thấy rằng Ông Nguyễn Văn Minh và các thành viên công ty đã làm đúng theo hướng dẫn của các cơ quan ban ngành sở lao động thương binh xã hội, sở tài chính về Quy trình Xây dựng dự toán đơn giá tiền lương và thực hiện đơn giá đó một cách minh bạch, không có sự gian dối, không có vụ lợi cá nhân mà hoàn toàn phù hợp với khối lượng công việc và công sức của người lao động.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Quý Tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung, yêu cầu Viện Kiểm sát nhân dân/CQĐT – Bộ Công an làm rõ những nội dung mà chúng tôi kiến nghị như trên để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn Minh và những người có liên quan theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015:
“Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
- a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;”
Trên đây là toàn bộ kiến nghị của Luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Văn Minh. Để là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, Luật sư đồng nghiệp làm rõ hành vi cũng như trách nhiệm của ông Nguyễn Văn Minh và các đồng phạm, bị can khác trong vụ án, xác định có thỏa mãn dấu hiệu phạm tội tham ô tài sản hay không? Nếu không đủ cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Luật sư trả hồ sơ điều tra bổ sung theo luật định.
Ngày 19/9/2019 Thẩm Phán Lê Hồng Hương đã ra quyết định hoãn phiên tòa với lý do;
Ông Nguyễn Văn Minh và Bà Nguyễn Thị Thùy Oanh vắng mặt tại phiên tòa khi tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận được công văn số 27/CQQLTG ngày 17/9/2019 của cơ quan quản lý tạm giam, tạm giữ của Công an tỉnh Đồng Nai về việc điều chuyển, trích xuất dẫn giải bị cáo phục vụ xét xử vụ án hình sự sơ thẩm tại tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai không thể thực hiện. Ngay sau đó Luật sư Nguyễn Minh Long cùng đồng nghiệp thuộc đoàn Luật sư Hà Nội nhận được thông báo lịch xét xử vào ngày 10/10/2019 cho đến ngày 15/10/2019 tòa án tiếp tục mở lại.
Công ty Luật Dragon