Xin kính chào Văn phòng Luật sư Hà Nội!
Đầu tiên tôi xin gửi lời kính chúc quý Văn phòng luật sư Dragon cùng toàn thể anh chị em trong Công ty luật Dragon nhiều sức khỏe và ngày càng phát triển. Tôi có 1 vấn đề mong được sự tư vấn của Luật sư:
Hai vợ chồng tôi trước đây sống rất hạnh phúc và có 1 cô con gái sinh năm 2008.
Hai vợ chồng làm cùng 1 cơ quan, nhưng sau đó tôi chuyển công tác sang đơn vị khác, 1 thời gian ngắn thì cơ quan cũ có nhận nhân viên mới – 1 người phụ nữ đã có chồng và có con, cô ấy thua tôi 3 tuổi và là bạn học cùng với em gái chồng tôi.
Anh ta dẫn cô ấy về nhà và giới thiệu với tôi là em gái, tôi cũng tin tưởng đó là tình anh em nên đôi lúc thân thiết như vậy.
Nhưng rồi những gì tôi chứng kiến thật đáng sợ, lúc đầu còn lén lút nhưng sau đó thì công khai hơn.
Khuyên nhủ rồi cho cơ hội biết bao lần nhưng vẫn ko thay đổi được gì, tôi cứ lặng lẽ và âm thầm chịu đựng, đến 1 ngày ko thể chịu được nữa nên mẹ con tôi dọn ra ngoài ở riêng. Sau đó cô kia đòi li hôn và chồng tôi cũng đòi li hôn, lúc đầu tôi ko chịu ký đơn vì nghĩ đến con nhưng anh ta suốt ngày gây áp lực và có những lời lẽ cay nghiệt lắm, đợt dó tôi thực sự rất mệt mỏi, đủ thứ chuyện dồn dập và tôi đã ra Công an nhờ họ can thiệp, mong anh ta để tôi yên. Rồi sau những mệt mỏi, áp lực cuối cùng tôi cũng đã đồng ý ký đại đơn cho xong, anh ta lo hết, tôi chỉ việc lên toà 1 lần duy nhất khoảng 20 phút là xong tất cả.
Chúng tôi có chung 2 miếng đất nhỏ, 1 miếng anh ta đã xây nhà, 1 miếng còn đó. Khi chia tay, tôi muốn lấy miếng đất còn lại để dành sau nay cho con gái, anh ta quy 2 miếng đất đó theo giá thị trường rồi chia đôi và anh ta bắt tôi bù cho anh ta 60 triệu đồng, miếng đất anh ta đã xây nhà thì anh ta tính giá rẻ, còn miếng tôi muốn lấy thì anh ta tính khá cao và tôi phải bù cho anh ta 60tr. Miếng anh ta làm nhà đã được chuyển đứng tên anh ta hay người thân anh ta rồi, còn miếng đất tôi lấy thì đứng tên giấy mua bán tay và hợp đồng là tên bố mẹ tôi. Tôi chỉ giữ lại giấy mua bán tay, còn hợp đồng và các giấy tờ khác anh ta giữ hết. Đợt đó tôi thực sự mệt mỏi, ko muốn kéo dài tình trạng này thêm chút nào nữa nên đã ký. Bạn bè, đồng nghiệp .. ai cũng nói tôi dại (tôi ko giám cho gđ tôi biết việc tôi phải bồi thường cho anh ta 60tr vì bố tôi rất nóng tính và mẹ tôi thì đang đau yếu). tôi bảo giờ chưa có tiền và bảo anh ta cho thêm thời gian để chạy, anh ta gia hạn trong 6 tháng là tôi phải trả đủ cho anh ta.
Sau đúng 6 tháng anh ta gọi điện thoại đòi tiền, tôi bảo chưa chạy đủ, vì tôi phải nuôi con, lương thì thấp nên 60tr đối với tôi là 1 số tiền quá lớn ( 1 tháng anh ta chu cấp cho con 1 triệu ). Thế là anh ta làm đơn ra tư pháp, gọi điện thoại vào phòng tổ chức cơ quan tôi và gửi đơn vào tận Chi bộ cơ quan tôi. Tôi thực sự không ngờ, mệt mỏi quá nên tôi gọi đt và nói giờ tôi ko muốn lấy miếng đất đó nữa vì ko thể chạy được tiền trả nợ cho anh, anh lấy luôn miếng đất đó đi và đưa lại tiền cho mẹ con tôi. Anh ta bảo nếu lấy miếng đất đó thì 6 tháng sau anh ta mới trả tiền, còn không thì cứ ra tòa đi. Giờ tôi thực sự ko biết làm sao, tôi chỉ muốn anh ta lấy luôn miếng đất đó là đưa lại tiền cho mẹ con tôi cho dứt điểm thôi, tôi ko muốn kéo dài thêm nữa, mệt mỏi lắm rồi. Giờ tôi phải làm sao đây? tôi nên làm gì? nếu ra tòa thì thì sao? rất mong nhận được sự chia sẻ và tư vấn của quý Luật sư.
Xin chân thành cảm ơn rất nhiều!
Trả lời:
Chào bạn! Thay mặt Công ty luật Dragon chúng tôi xin sẻ chia cùng bạn những khó khăn mà bạn đang phải trải qua trong cuộc sống.
Những thông tin mà bạn cung cấp về nguồn gốc, khối lượng tài sản chung của vợ chồng bạn cũng như sự tự thỏa thuận phân chia tài sản của vợ chồng bạn là chưa rõ ràng. Nên chúng tôi chỉ có thể tư vấn cho bạn một số vấn đề sau:
Căn cứ điều 27, 97 luật HNGĐ 2000
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Điều 97. Chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn
1. Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:
d) Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự.
Bạn cần xác định rõ nguồn gốc, số lượng tài sản chung của vợ chồng bạn, bởi lẽ theo bạn trình bày thì tài sản chung của vợ chồng bạn bao gồm 02 thửa đất nêu trên là thiếu căn cứ (01 mảnh đất đứng tên bố mẹ bạn trong các giấy tờ mua bán và hợp đồng).
Để xác định tính hợp pháp của văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng bạn. Bạn đối chiếu với các quy định dưới đây:
Điều 6, điều 7 nghị định Số: 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành luật hôn nhân gia đình.
Điều 6. Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân
1. Thoả thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do chia tài sản;
b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia;
c) Phần tài sản còn lại không chia, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về việc chia tài sản chung, thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Điều 7. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung
1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.
2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
4. Trong trường hợp Toà án cho chia tài sản chung theo quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định này, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày quyết định cho chia tài sản chung của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Theo điều 95 – Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn: “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết”
Như vậy, để vụ việc này không kéo dài, đồng thời để đảm bảo quyền lợi cho của mình chị nên yêu cầu tòa án giải quyết..
Mọi yêu cầu cụ thể mời liên hệ trực tiếp:
CÔNG TY LUẬT DRAGON