Luật sư tư vấn Văn phòng luật sư Hà Nội – Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong hoạt động thi hành án dân sự nói riêng là một trong những chế định quan trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định có hiệu lực của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, trên thực tế việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Cho đến nay, số lượng chấp hành viên, Trưởng thi hành án của các địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động tư pháp chưa nhiều; cơ quan thanh tra chuyên ngành tư pháp còn rất ít khi thực hiện thẩm quyền đó. Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi vận dụng các quy định của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận lớn những người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa cao; tại nhiều địa phương, đã để xảy ra tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức từ những việc như cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án … đến những hành vi nghiêm trọng hơn như phân tán hoặc làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án, thậm chí là phá huỷ niêm niêm phong, huỷ hoại tài sản đã kê biên… Thực tế đó đã chứng tỏ vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không những chưa giảm mà còn có xu hướng ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn.
Để góp phần đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn công tác thi hành án dân sự trên toàn quốc; đưa những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự vào thực tiễn đời sống xã hội, chuyên đề này sẽ đưa ra, thảo luận và phân tích một số nội dung cơ bản của việc xử phạt hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự như: cơ sở pháp lý, đối tượng xử phạt, nguyên tắc xử phạt, hành vi vi phạm hành chính và mức xử phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt cũng như cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực này.
1. Cơ sở pháp lý
Vào những năm đầu của thập kỷ 90, các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và các văn bản pháp luật có liên quan mới chỉ dừng lại ở mức quy định có tính chất định hướng cho việc xử phạt vi phạm hành chính. Thời điểm đó, chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể để tiến hành xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong hoạt động thi hành án dân sự nói riêng. Sau khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) ra đời, thay thế Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995, Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh được ban hành và đặc biệt là Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị định số 173/2004/NĐ-CP) cũng được ban hành. Đó chính là những cơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết đầu tiên cho việc tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự. Sau đó, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 76/2006/NĐ-CP) được ban hành và có hiệu lực đã thay thế toàn bộ những quy định có liên quan tại Nghị định số 173/2004/NĐ-CP. Đây là văn bản tạo cơ sở pháp lý chi tiết, cụ thể nhất và trực tiếp nhất hiện nay cho việc tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự.
Ngoài ra, còn phải kể đến một loạt các văn bản quan trọng khác liên quan đến những quy định về xử phạt vi phạm hành chính như Luật Thanh tra năm 2004, Nghị định số 74/2006/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp; Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản có liên quan khác.
2. Đối tượng xử phạt
Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 và Điều 7 Nghị định 76, đối tượng có thể bị xử phạt hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự là rất rộng, bao gồm các cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS mà không phải là tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS của các cá nhân, tổ chức mà không phải là tội phạm đều là đối tượng bị xử phạt. Cần nhấn mạnh rằng hành vi vi phạm hành chính phải được pháp luật quy định. Cụ thể trong hoạt động thi hành án dân sự, chỉ có những hành vi được quy định từ khoản 1 đến hết khoản 3, Điều 7 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP mới bị xem xét, xử phạt theo quy định của pháp luật.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cũng bị xử phạt theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên có quy định khác thì thực hiện theo điều ước quốc tế đó.
Một điểm quan trọng, cần lưu ý nữa là những hành vi vi phạm chế độ công vụ của chấp hành viên, cán bộ thi hành án, thanh tra viên tư pháp và những cán bộ, công chức có liên quan khác trong khi thi hành nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực thi hành án dân sự mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, chứ không bị xử phạt như các cá nhân, tổ chức đề cập ở trên.
3. Nguyên tắc xử phạt
Nguyên tắc 1, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự trước hết phải tuân theo quy định tại khoản 1, Điều 3 của Pháp lệnh: “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp luật“. Đây là quy định mang tính kế thừa của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995, thể hiện sự nhất quán trong chính sách xử lý hành chính của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay, đó là nguyên tắc chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm hành chính, khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Theo đó, khi phát hiện vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự, công việc đầu tiên mà người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện là đình chỉ ngay hành vi vi phạm hành chính đó.
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự đồng thời cũng phải tuân theo các nguyên tắc quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 3 của Pháp lệnh và được cụ thể hoá tại Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP.
Nguyên tắc 2, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Đây là quy định tại khoản 1, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP. Theo đó, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ. Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt.
Nguyên tắc 3, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần (khoản 2, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP). Nguyên tắc này đưa ra 03 trường hợp cụ thể sau đây:
– Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 8 Điều 9 của Pháp lệnh;
– Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh đối với hành vi đó;
– Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người đã quyết định xử phạt phải huỷ bỏ quyết định xử phạt; nếu chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó.
Nguyên tắc 4, nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi đó và người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà ra quyết định xử phạt đối với từng người cùng thực hiện vi phạm hành chính (khoản 3, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP).
Nguyên tắc 5, một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh (khoản 4, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP).
4. Hành vi vi phạm và hình thức xử phạt
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này không phải là tội phạm, tức là chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó yếu tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm hành chính. Tương tự như hành vi phạm tội, hành vi vi phạm hành chính cũng là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước và thường là phạm vào các điều cấm của pháp luật, song tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính thấp hơn tội phạm. Đồng thời như đã trình bày ở trên, một trong những nguyên tắc cơ bản của xử lý vi phạm hành chính là hành vi vi phạm hành chính phải được pháp luật quy định, nói cách khác hành vi nào không được pháp luật về vi phạm hành chính quy định thì không bị coi là vi phạm hành chính.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, các hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt những hành vi vi phạm hành chính đó đã được quy định cụ thể tại Điều 7 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP. Theo quy định đó, hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung mà chỉ áp dụng hình thức xử phạt chính, gồm hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền (thấp nhất là 50.000 đồng và cao nhất là 1.000.000 đồng) và biện pháp khắc phục hậu quả. Căn cứ vào tính chất nguy hiểm, phức tạp của các hành vi vi phạm, mức xử phạt tương ứng được chia thành 03 cấp độ như sau:
Thứ nhất, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong hai hành vi sau đây:
– Người phải thi hành án cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án, quyết định của Toà án. Hiện nay, chưa có những quy định cụ thể của pháp luật hướng dẫn những hành vi nào được coi là “cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án, quyết định của Toà án“, nhưng thực tiễn hành vi này diễn ra rất đa dạng và phức tạp, chỉ xin nêu ra đây một số ví dụ để chúng ta cùng tham khảo như: người phải thi hành án từ chối không nhận giấy báo, giấy triệu tập; tránh gặp người đưa giấy báo, giấy triệu tập; hoặc khi gặp chấp hành viên đến nhà đưa giấy báo, giấy triệu tập thi bỏ chạy; thậm chí có người còn xé giấy báo, giấy triệu tập ngay trước mặt chấp hành viên…;
– Hành vi thứ hai được quy định dành cho những người phải thi hành án mặc dù đã nhận giấy báo, giấy triệu tập đến lần thứ hai nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng. Câu hỏi đặt ra là những lý do nào thi được coi là chính đáng, lý do nào thi không thể chấp nhận được? Theo chúng tôi, lý do chính đáng là những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng đối với người phải thi hành án như trên đường đến địa điểm ghi trong giấy báo thì bị tai nạn giao thông, bị ốm không thể đi được (có giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền) hoặc có đám hiếu, đám hỷ của người ruột thịt trong gia đình…
Thứ hai, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong năm hành vi sau đây:
– Người phải thi hành án cố tình không thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án như biện pháp niêm phong, cấm dịch chuyển tài sản, kê biên tài sản…; hoặc người phải thi hành án không thực hiện quyết định phải thi hành ngay theo quyết định thi hành án;
– Người phải thi hành án không thực hiện công việc buộc phải làm như phải tháo dỡ công trình trên đất người khác hoặc không chấm dứt thực hiện công việc mà bản án, quyết định của Toà án tuyên không được chẳng hạn như trong bản án, quyết định của Toà án tuyên một người phải dừng ngay việc khai thác, sử dụng hay xây dựng công trình trên đất…, nhưng người đó đã không thực hiện….;
– Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà không có lý do chính đáng. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy có nhiều vụ việc người phải thi hành án cố ý không thi hành án và viện dẫn rất nhiều lý do khác nhau cho sự trì hoãn đó. Tuy nhiên, khi chấp hành viên đi xác minh thì lại thấy rằng người đó có đủ điều kiện thi hành và những lý do người đó đưa ra là hoàn toàn không chính đáng. Trong những trường hợp đó, cần thiết phải áp dụng xử phạt để đảm bảo sự tôn nghiêm của pháp luật;
– Người phải thi hành án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc giao các giấy tờ liên quan đến tài sản xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký xe…;
– Hành vi vi phạm hành chính cuối cùng của người phải thi hành án được pháp luật quy định áp dụng mức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng là người phải thi hành án không thực hiện đúng cam kết đã thoả thuận theo quyết định công nhận sự thoả thuận của Toà án.
Thứ ba, khác các hành vi vi phạm hành chính thuộc hai loại vừa nêu ra và phân tích ở trên là chỉ áp dụng đối với người phải thi hành án, loại cấp độ thứ ba này không áp dụng phạt cảnh cáo, mức tiền phạt cũng tăng lên đến từ 500.000 đồng đến 1.000.000; đặc biệt là đối tượng áp dụng được hiểu không chỉ còn là người phải thi hành án mà đã được mở rộng ra những đối tượng khác, có thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay bất cứ cá nhân nào thực hiện những hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật như đã phân tích tại mục 2 (đối tượng xử phạt) của chuyên đề này. Các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự thuộc loại thứ ba bao gồm:
– Phân tán hoặc làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản để thi hành án;
– Sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên;
– Phá huỷ niêm phong hoặc huỷ hoại tài sản đã kê biên;
– Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tiền từ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.
5. Thẩm quyền xử phạt
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là một trong những vấn đề quan trọng của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói chung, pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động THADS nói riêng. Đây là vấn đề có nội dung tương đối phức tạp và nhạy cảm, bởi nó trực tiếp liên quan đến sự phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước; đặc biệt trong bối cảnh hiện nay nó còn động chạm đến cái gọi là “quyền anh, quyền tôi” trong hoạt động chấp hành, điều hành, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, xử lý vi phạm.
“Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” được hiểu là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật xử phạt vi phạm hành chính quy định trong việc áp dụng các hình thức xử phạt chính, bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, thì hiện có 74 chức danh có thẩm quyền xử phạt.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự hiện nay được quy định cụ thể từ Điều 36 đến Điều 40 của Nghị định 76/2006/NĐ-CP bao gồm: cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự, Uỷ ban nhân dân các cấp, và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, chủ thể giữ một vai trò quan trọng trong việc xử phạt các vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự trước hết phải kể đến đó là cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp. Vì vậy, Nghị định 76/NĐ-CP đã dành hẳn một Điều 37 quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan này như sau:
“Điều 37. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp
1. Thanh tra viên chuyên ngành Tư pháp đang thi hành công vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 200.000 đồng;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng;
d) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.
2. Chánh thanh tra Sở Tư pháp có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 20.000.000 đồng;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thẩm quyền;
đ) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.
3. Chánh thanh tra Bộ Tư pháp có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến mức tối đa quy định tại Nghị định này;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thẩm quyền;
đ) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.“
Từ những quy định tại khoản 2 và 3 Điều này có thể thấy rằng trong cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp thì có 2 chức danh có thẩm quyền xử phạt mà không bắt buộc phải trực tiếp phát hiện hành vi vi phạm, đó là: Chánh Thanh tra có quyền áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 76/2006/NĐ-CP; Phó Chánh Thanh tra có quyền áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 76/2006/NĐ-CP và được Chánh Thanh tra uỷ quyền.
Riêng đối với Thanh tra viên chuyên ngành Tư pháp, ngoài thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong khi thi hành công vụ như quy định tại khoản 1 Điều 37 Nghị định số 76 này thì Điều 21, Nghị định 74/2006/NĐ-CP còn quy định thẩm quyền của Thanh tra viên trong trường hợp khẩn cấp: “Trường hợp khẩn cấp cần ngăn chặn, xử lý ngay hành vi vi phạm, Thanh tra viên được áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời báo cáo ngay với Chánh Thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các biện pháp xử lý của mình.”.
Quy định trên có thể được hiểu là trong trường hợp khẩn cấp, Thanh tra viên Tư pháp có thẩm quyền xử phạt hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật để xử lý các vi phạm hành chính. Mặc dù hiện nay chưa có quy định chi tiết nào về “trường hợp khẩn cấp“, tuy nhiên theo chúng tôi “trường hợp khẩn cấp ở đây có thể được hiểu như sau:
– Thanh tra viên là thành viên Đoàn Thanh tra đang tiến hành thanh tra chuyên ngành theo Quyết định và kế hoạch thanh tra của người có thẩm quyền;
– Thanh tra viên được Chánh Thanh tra phân công độc lập tiến hành thanh tra chuyên ngành tại một cơ quan, tổ chức có hoạt động trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của ngành Tư pháp;
– Thanh tra viên đang thực hiện nhiệm vụ không có liên quan đến lĩnh vực có hành vi vi phạm hành chính nhưng phát hiện cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực Tư pháp thì có quyền xử phạt tại chỗ theo thẩm quyền, sau đó phải báo cáo ngay với Chánh Thanh tra;
– Thanh tra viên của Thanh tra Tư pháp khi tham gia Đoàn thanh tra liên ngành mà phát hiện cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 76/2006/NĐ-CP;
– Trong trường hợp Thanh tra viên được Chánh Thanh tra phân công thực hiện nhiệm vụ không có liên quan đến lĩnh vực có hành vi vi phạm hành chính nhưng có tin báo khẩn cấp về việc cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 76/2006/NĐ-CP thì báo cáo Chánh Thanh tra và đến ngay hiện trường để xem xét, xác minh nguồn tin. Nếu xác định được hành vi vi phạm thì xử phạt theo thẩm quyền và báo cáo Chánh Thanh tra;
– Trường hợp Thanh tra viên đang giải quyết việc riêng mà phát hiện có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 76/2006/NĐ-CP thì tiến hành lập biên bản tại chỗ và báo cáo ngay Chánh Thanh tra qua điện thoại để xin ý kiến chỉ đạo;
Thứ hai, trong hoạt động thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan thường xuyên và trực tiếp phải xử lý những vi phạm hành chính của người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Chính vì vậy, Điều 38, Nghị định 76/2006/NĐ-CP quy định:
“1. Chấp hành viên thi hành án dân sự đang thi hành công vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 200.000 đồng.
2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 500.000 đồng.
3. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án quân khu và cấp tương đương có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 1.000.000 đồng.“
Từ những quy định này có thể thấy rằng cũng giống như thủ trưởng và phó thủ trưởng cơ quan thanh tra chuyên ngành, thủ trưởng và phó thủ trưởng (nếu được uỷ quyền) cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật mà không bắt buộc phải trực tiếp phát hiện vi phạm.
Thứ ba,một cơ quan có thẩm quyền chung cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự đó là Uỷ ban nhân dân các cấp được quy định tại Điều 39, Nghị định 76/2006/NĐ-CP. Một trong những mục đích của quy định này là để xử phạt các trường hợp vượt quá thẩm quyền của cơ quan chuyên ngành cơ sở, tránh trường hợp tồn đọng, chậm trễ trong việc giải quyết xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, để hạn chế cái gọi là “quyền anh, quyền tôi” khi việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp nói chung, trong hoạt động thi hành án dân sự nói riêng, Nghị định 76/2006/NĐ-CP đã quy định tại Điều 39 như sau:
“1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc xử phạt đối với các vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc phạm vi địa phương mình quản lý theo thẩm quyền cụ thể quy định tại Điều 36 Nghị định này.
2. Thanh tra chuyên ngành tư pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II Nghị định này và các hành vi vi phạm hành chính khác liên quan đến lĩnh vực tư pháp quy định tại các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước theo thẩm quyền cụ thể quy định tại Điều 37 Nghị định này.
Chánh Thanh tra và Thanh tra viên chuyên ngành Sở Tư pháp không xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Mục 5 Chương II Nghị định này.
3. Cơ quan thi hành án dân sự xử phạt theo thẩm quyền quy định tại Điều 38 của Nghị định này đối với các vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự.
4. Trong trường hợp vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều cơ quan thì việc xử phạt do cơ quan thụ lý đầu tiên thực hiện.“
6. Thủ tục xử phạt
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự phải tuân theo quy định tại Chương VI Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Chương IV Nghị định 134/2003/NĐ-CP và Chương IV Nghị định 76/2006/NĐ-CP. Theo đó, thủ tục xử phạt được chia làm 02 loại: thủ tục đơn giản và thủ tục lập biên bản. Ý nghĩa của việc chia thủ tục làm hai loại là ở chỗ: đối với việc đơn giản thì người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền tại chỗ; vụ việc được giải quyết nhanh chóng, đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước, công chức khi thi hành công vụ và cho cả cá nhân, tổ chức vi phạm.
6.1 Thủ tục đơn giản
Theo quy định tại Điều 54 Pháp lệnh, Điều 19 Nghị định 134 và khoản 1, Điều 43 Nghị định 76/2006/NĐ-CP thì thủ tục đơn giản là loại thủ tục được áp dụng trong trường hợp xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 100.000 đồng và người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay mà không phải lập biên bản. Nội dung quyết định xử phạt theo thủ tục đơn giản, ngắn gọn hơn so với thủ tục lập biên bản, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo những thông tin sau đây: họ, tên, địa chỉ của người vi phạm, hành vi vi phạm, địa điểm xảy ra vi phạm, điều, khoản, tên văn bản được áp dụng để xử phạt; ngày, tháng, năm ra quyết định, họ, tên, chức vụ người ra quyết định. Trong trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Người ra quyết định xử phạt phải giao cho người bi xử phạt quyết định xử phạt.
6.2 Thủ tục lập biên bản
Thủ tục xử phạt phải lập biên bản trong hoạt động thi hành án dân sự được quy định trực tiếp tại khoản 3, Điều 42, Nghị định 76/2006/NĐ-CP Quy định này dẫn chiếu tới các quy định tại Điều 55 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Điều 20 của Nghị định 134. Từ những quy định này có thể khái quát thủ tục lập biên bản như sau:
Một là, khi phát hiện vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự, người có thẩm quyền xử phạt phải ra lệnh bằng văn bản hoặc bằng miệng, yêu cầu đình chỉ ngay hành vi vi phạm, đồng thời lập biên bản về hành vi vi phạm. Biên bản phải có những nội dung chính sau đây: ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, địa chỉ người vi phạm; ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm, tang vật, phương tiện vi phạm (nếu có). Biên bản phải được lập làm 02 bản, có chữ ký của người lập biên bản, của cá nhân, tổ chức vi phạm, của người làm chứng (nếu có); nếu cá nhân, tổ chức vi phạm từ chối ký thì người có thẩm quyền xử phạt hoặc người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản. Trong trường hợp biên bản có nhiều tờ thì người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm phải ký vào từng tờ biên bản.
Hai là, xem xét, quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 56 Pháp lệnh và Điều 21 nghị định 134. Theo đó, đối với những vi phạm bình thường thì thời hạn để ra quyết định xử phạt là 10 ngày kể từ ngày lập biên bản, đối với những vụ việc phức tạp, thì thời hạn để ra quyết định xử phạt là 30 ngày; trong trường hợp cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp bằng văn bản để ra hạn. Việc gia hạn thêm phải bằng văn bản và thời gian ra hạn thêm là 30 ngày. Nội dung quyết định xử phạt phải tuân theo quy định tại khoản 3, Điều 56 Pháp lệnh, bao gồm: ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm, điều khoản, tên văn bản được áp dụng, hình thức xử phạt chính và bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả.
Đối với vụ vi phạm không thuộc thẩm quyền thì người lập biên bản chuyển biên bản đó cho người có thẩm quyền để quyết định xử phạt.
Ba là, thi hành quyết định xử phạt. Theo quy định tại Điều 64 của Pháp lệnh, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm phải thi hành quyết định xử phạt. Quá thời hạn quy định mà cá nhân, tổ chức không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành.
Hoãn thi hành quyết định xử phạt: Trong trường hợp cá nhân vi phạm chưa thể thi hành quyết định xử phạt không phải do họ chây ỳ mà do chưa có điều kiện thi hành như đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế; đồng thời mức bị xử phạt tiền từ 500.000 đồng trở lên, thì có thể được tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt. Thời hạn tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt không quá 03 tháng kể từ khi có quyết định tạm hoãn. Người có thẩm quyền quyết định phạt tiền, có quyền quyết định tạm hoãn. Để được hoãn, cá nhân, tổ chức vi phạm phải làm đơn đề nghị có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan.
7. Một số lưu ý khác về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự
7.1 Tình tiết tăng năng, giảm nhẹ
Một trong những yêu cầu cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính là việc xử lý phải tương xứng với tính chất mức độ của hành vi vi phạm và nhân thân người vi phạm. Đó cũng chính là một trong những cơ sở cho việc ban hành các quy định về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trong xử lý vi phạm hành chính. Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trong xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự được quy định tại khoản 2, Điều 3, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP và dẫn chiếu đến Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Điều 6 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP.
– Theo quy định tại Điều 8 Pháp lệnh, có bảy (07) tình tiết giảm nhẹ, bao gồm: (1) Người vi phạm hành chính đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; (2) Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; (3) Vi phạm trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; (4) Vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần; (5) Người vi phạm là phụ nữ có thai, người già yếu, người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; (6) Vi phạm vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra; và (7) Vi phạm do trình độ lạc hậu.
– Theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh, có chín (09) tình tiết tăng năng, bao gồm: (1) Vi phạm có tổ chức; (2) Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực; (3) Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm; (4) Vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác; (5) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm; (6) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm; (7) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính; (8) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó; và (9) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính.
Cần phải lưu ý rằng, chỉ có chín tình tiết này mới là tình tiết tăng nặng, không ai có thể đặt ra bất cứ một tình tiết tăng nặng nào ngoài những tình tiết này để xử phạt nặng thêm cho công dân.
7.2 Thời hiệu xử phạt
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong hoạt động thi hành án dân sự nói riêng là một năm, kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện. Nếu quá thời hiệu nói trên mà vi phạm hành chính mới bị phát hiện thì không tiến hành xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định này. Trong trường hợp quá thời hiệu xử phạt mà lỗi thuộc về người có thẩm quyền xử phạt thì người có thẩm quyền xử phạt bị xử lý theo quy định tại Điều 121 của Pháp lệnh như sau : “Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà sách nhiễu, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, xử lý vượt thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.“.
Khoản 2, Điều 4, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP cũng quy định “Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì bị xử phạt vi phạm hành chính nếu hành vi của người đó có dấu hiệu vi phạm hành chính; trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã ra quyết định phải gửi quyết định cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.“.
Trong thời hạn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP này, nếu người vi phạm thực hiện vi phạm hành chính mới trong hoạt động thi hành án dân sự hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu xử phạt như quy định ở trên mà thời hiệu xử phạt được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
Theo quy định tại Điều 6, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP vấn đề “thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính” đã được quy định cụ thể. Theo đó, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự, nếu qua một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt (tức là kể từ ngày thực hiện xong các nghĩa vụ, yêu cầu ghi trong quyết định xử phạt hoặc từ ngày quyết định xử phạt được cưỡng chế thi hành) hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
7.3 Khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự được quy định tại Chương V của nghị định 76 và dẫn chiếu đến quy định tại Điều 118 của Pháp lệnh. Theo đó, có thể hiểu rằng chủ thể khiếu nại về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động THADS là cá nhân, tổ chức bị xử phạt; chủ thể thực hiện quyền tố cáo là mọi công dân. Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Nội dung này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể, chi tiết tại chuyên đề “Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi hành án dân sự“.
Công ty luật Dragon