Luật sư Hải Phòng bào chữa cho thân chủ thoát khỏi án tử hình trong đường dây buôn bán ma túy xuyên Quốc Gia
Bản luận cứ bào chữa cho thân chủ trong vụ án buôn bán Ma túy xuyên Quốc Gia với số lượng 148 Bánh heroin tại Tòa án nhân dân Tỉnh Quảng Ninh.
Tôi là Luật sư Lê Thị Thúy Hằng làm việc tại Chi Nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng cùng các Luật sư đồng nghiệp là Luật sư Nguyễn Minh Long, Luật sư Đỗ Lý Trà My – Luật sư Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Là Luật sư bào chữa cho bị can Hoàng Ngọc Hưng (sinh năm 1980, cư trú tại thôn Cốc Nam, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 4, điều 251 Bộ luật hình sự.
Thay mặt các luật sư đồng nghiệp trình bày quan điểm bảo vệ đối với bị can Hoàng Ngọc Hưng như sau:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thông qua buổi xét hỏi công khai tại phiên tòa ngày 12/11/2019, qua lời khai của các bị cáo trong vụ án, đối chiếu với các quy định pháp luật có liên quan chúng tôi không đồng ý với quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh khi truy tố bị can Hoàng Ngọc Hưng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 4, điều 251 Bộ luật hình sự, bởi những căn cứ sau đây:
Thứ nhất: Có sự vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật về tố tụng trong quá trình điều tra vụ án.
Về sự tham gia của người bào chữa:
Theo quy định tại các điều 58 quy định về Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt; Điều 59 quy định về Người bị tạm giữ; Điều 60 quy định về bị can; Điều 61 quy định về Bị cáo đều xác định những người trên có quyền “Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ” của mình, trong đó có quyền “tự bào chữa, nhờ người bào chữa”. Tuy nhiên các bút lục ghi nhận lời khai của bị cáo Hưng đều không thể hiện việc CQĐT đã giải thích và để bị cáo Hưng được thực hiện quyền này của mình.
Phải đến bút lục số 902 – biên bản hỏi cung ngày 3/7/2019 – thì bị can Hưng mới được giải thích về quyền của mình và bị can Hưng đã có đề nghị được mời luật sư. Trên nguyên tắc bảo về quyền lợi của bị can, bị cáo CQĐT cần thiết phải tạm dừng việc hỏi cung, mời người bào chữa cho bị can mới rồi mới tiếp tục tiến hành hỏi cung để đảm bảo tính khách quan trong lời khai cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nhưng phải đến ngày 4/10/2018 (sau 3 tháng đề nghị) bị can Hưng mới được thực hiện quyền này của mình.
Đồng thời, Điều 76 BLTTHS quy định về chỉ định người bào chữa như sau:
“Điều 76. Chỉ định người bào chữa
- Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
- a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;”
Ngay tại thời điểm ngày 19/6/2018 khi CQ CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố vụ án hình sự sau khi xác định có dấu hiệu của tội phạm “Vận chuyển trái phép chất ma túy, Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 250, 251 BLHS đã xác định được tính chất nghiêm trọng của vụ án đồng thời cũng xác định mức cao nhất của khung hình phạt đối với các tội danh trên là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình. Theo đó CQĐT cần thiết phải giải thích quyền mời người bào chữa cho người bị buộc tội, bị can, bị cáo. Nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ. Tuy nhiên với hơn 20 bút lục thể hiện lời khai của bị cáo Hoàng Ngọc Hưng chỉ duy nhất có 2 bút lục cuối cùng số 906 – 907 là có sự tham gia của người bào chữa.
Đối với bị cáo Hà Hồng Quân – người có liên quan trực tiếp đến hành vi của bị cáo Hưng trong vụ án này cũng đưa ra phần lớn lời khai (24 trên tổng số 25 bút lục) trong tình trạng không có người bào chữa tham gia.
Thêm vào đó tại phiên tòa ngày hôm nay, hàng loạt các bị cáo khác của vụ án đều kêu có oan sai, bị ép cung, nhục hình (cụ thể bị đánh, bị treo lên, bị đe dọa) trong quá trình điều tra vụ án. Từ đó kết hợp với những phân tích trên tôi có đặt ra giả thuyết rằng: tất cả những lời khai nhận của bị cáo Hoàng Ngọc Hưng, bị cáo Hà Hồng Quân (tức Quân sẹo) tại cơ quan điều tra mang tính buộc tội, chống lại bản thân bị cáo Hưng đều là những lời khai không khách quan, không trung thực, hoàn toàn sai với bản chất thực sự của vụ án. Tất cả những điều này đều xuất phát từ hành vi vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng của CQĐT trong quá trình điều tra vụ án.
Thứ hai: Về nội dung của vụ án, cụ thể là việc xác định tội danh đối với bị cáo Hưng.
Theo cáo trạng số 99 ngày 19/7/2019 của VKSND tỉnh Quảng Ninh thì bị cáo Hoàng Ngọc Hưng bị truy tố về tội danh “mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 4, điều 251 Bộ luật hình sự với vai trò đồng phạm với các bị cáo Pạ Sợt, Nguyễn Bá Ngọc, Vũ Đình Tuấn, Liễu Văn Láu, Hà Hồng Quân, Trần Hữu Định, Hoàng Đức Thế, Lương Đình Hoàn, Nguyễn Văn Tráng, Lương Dương Hải, Hoàng Xuyên. Quyết định truy tố trên của VKSND tỉnh Quảng Ninh là chưa đủ căn cứ, không tôn trọng nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự là “suy đoán vô tội” (Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự) khi không làm rõ được căn cứ chứng minh tội phạm đối với bị can Hoàng Ngọc Hưng. Cụ thể:
Điều 17 BLHS quy định về đồng phạm như sau:
“Điều 17. Đồng phạm
- Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Xét hành vi của bị cáo Hưng, nhận thấy:
– Tại thời điểm đầu tháng 5/2018: Tại trang 2 Cáo trạng thể hiện “Láu rủ Hà Hồng Quân, sau đó Quân rủ Hoàng Ngọc Hưng, cả 3 người đến thành phố Móng Cái để gặp Tuấn, Pạ Sợt và Ngọc. Trên đường đi, Hưng tham gia cùng Láu và Quân nói chuyện và được biết Láu cùng Quân đi Móng Cái để gặp người bán ma túy và người mua ma túy thống nhất giá cả, phương thức giao nhận ma túy và tiền.”
+Về việc này Hà Hồng Quân tại các lời khai ban đầu đã khai như sau:
BL 853 Quân khai “Tôi bảo Hưng đi cùng tôi lái xe chờ tôi và Láu xuống Móng Cái”; “khi đến khách sạn tôi và Hưng ngồi uống cafe ở 1 bàn, người phụ nữ TQ ngồi 1 mình 1 bàn, còn Láu và 2 người đàn ông TQ ngồi cùng bàn với ba người đàn ông nữa, tại đây họ nói chuyện gì tôi không biết”. BL 860 Quân tiếp tục nhắc lại lời khai này.
BL 855 Quân khai “khoảng đầu tháng 5/2018 sau khi tôi cùng Hưng chở Láu ra Móng Cái để gặp một số người tại một quán cafe, trong đó có mấy người TQ còn lại là người Vn vì tôi thấy những người này nói tiếng việt, tuy nhiên tôi không rõ nội dung Láu nói chuyện với những người này vì tôi không được tham gia”. BL 862 Quân tiếp tục nhắc lại lời khai này.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo Quân đã nhiều lần khẳng định với HĐXX, đại diện VKS cũng như các Luật Sư trong phần xét hỏi: bị cáo Quân có nhờ bị cáo Hưng lái xe chở Quân và Láu ra Móng Cái tuy nhiên trên đường đi và về đều không có bất kỳ trao đổi nào về việc mua bán ma túy. Khi đến Móng Cái thì Quân và Hưng ngồi riêng 1 bàn, không cùng tham gia trao đổi với các đối tượng khác nên không rõ nội dung, đồng thời cũng nhấn mạnh các bàn có vách ngăn nên không thể nghe được Láu và những người khác trao đổi gì.
+ Về việc này bị cáo Liễu Văn Láu khai:
Bị cáo Láu trong quá trình điều tra chỉ nhắc đến bị cáo Hưng duy nhất trong BL số 831 với nội dung như sau: “Sau đó tôi bảo Quân sẹo và Hưng là lái xe của Quân sẹo chở tôi đến Móng Cái. Khi đến Móng Cái tôi được Tuấn thông báo địa điểm gặp nhau là khách sạn Grand thì Quân sẹo và Hưng chờ tôi đến đó rồi Quân sẹo và Hưng ra ngoài đợi”
Tại phiên tòa ngày hôm nay, cũng như bị cáo Quân, bị cáo Láu cũng khẳng định vào thời điểm đầu tháng 5/2018 bị cáo Quân cùng Láu và Hưng (Lái xe) trên đường đi Lạng Sơn – Móng Cái và đường về các bị cáo đều không trò chuyện, trao đổi gì liên quan đến mua bán ma túy. Khi đến Móng Cái cũng không trao đổi mà Quân và Hưng ngồi ngoài.
Cần nhấn mạnh, lời khai của các bị cáo trong vụ án đều khẳng định lời khai tại Phiên tòa mới là chính xác, khách quan. Và trên thực tế lời khai tại phiên tòa của các bị cáo Hoàng Ngọc Hưng, Hà Hồng Quân, Liễu Văn Láu đều trùng khớp với nhau về hành vi của bị cáo Hưng. Đây là một căn cứ rất quan trọng khẳng định “tại thời điểm tháng 5/2018 bị cáo Hưng hoàn toàn không hay biết, không tham gia việc trao đổi, bàn bạc mua bán gì giữa các bị cáo khác của vụ án”. Hay nói cách khác cáo trạng số 99 đã phản ánh không chính xác sự thật khách quan của vụ án đối với tình tiết này.
– Tại thời điểm giữa tháng 5/2018: Tại trang 4 của Cáo trạng thể hiện “Sau khi giao ma túy cho A Lẩu, Quân báo với Hoàng Văn Hưng (em rể Quân) là Quân vừa bán được chuyến hàng trắng (tức Heroin), nhưng tiền bán ma túy vẫn ở TQ chưa lấy được về. Quân bảo Hưng sang TQ lấy tiền về cho Quân thì Hưng đồng ý.
+ Về việc này bị cáo Quân khai:
Tại các BL 853 đến BL 856, BL 861, BL 863 Quân khai nhận mình trực tiếp nhận tiền từ một người đàn ông Trung Quốc, không liên quan đến bị cáo Hưng.
Tuy nhiên tại các BL khác Quân thay đổi lời khai thể hiện có chỉ đạo Hưng sang TQ nhận tiền mua bán ma túy nhưng không nói trực tiếp với Hưng đó là tiền mua bán ma túy mà có, chỉ nói là vừa bán được chuyến hàng cho người TQ nhưng tiền vẫn bên TQ nên nhờ Hưng sang nhận về. Quân không nói cho Hưng biết ai tham gia mua bán, bán như thế nào, giá bao nhiêu, ngay cả khi Hưng hỏi là “có nhiều tiền không” thì Quân cũng chỉ trả lời “có mấy trăm vạn” thôi, như vậy được hiểu đến cả bản thân Quân cũng không xác nhận được số tiền mình sẽ được nhận nên khẳng định Hưng hoàn toàn không hay biết gì về việc giao dịch giữa Quân và các bị cáo khác trong vụ án này (Những điều trên được thể hiện tại các BL870, BL 872)
Tại phần xét hỏi công khai ngày 12/11/2019, bị cáo Quân đã khẳng định có chỉ đạo Hưng sang TQ nhận tiền mua bán hàng hóa về cho mình nhưng không nói cho Hưng biết mua bán hàng hóa gì, với ai, giá cả như thế nào.
Như vậy, trên thực tế Quân chỉ nói với Hưng là đi nhận tiền hàng chứ chưa bao giờ trực tiếp nói với Hưng đó là tiền mua bán ma túy mà có.
+ Về việc này bị cáo Hưng đã khai như sau:
Các lời khai của bị cáo Hưng tại CQĐT đều thể hiện, bị cáo Quân gọi bị cáo Hưng và nói vừa bán sang TQ 1 chuyến hàng nhưng chủ TQ chưa thanh toán nên nhờ Hưng sang TQ lấy tiền về cho Quân nhưng cũng như Quân đã khai, Hưng cũng xác nhận Quân không nói cho Hưng biết ai tham gia mua bán, bán như thế nào, giá bao nhiêu. Việc Hưng khai nhận rằng mình vận chuyển tiền do Quân mua bán ma túy hoàn toàn xuất phát từ suy nghĩ chủ quan của Hưng mà bản thân Hưng không trực tiếp tham gia cũng như Quân không có bất cứ lời nói, hành động nào khác thể hiện có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Hưng biết.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, Hưng cũng khai nhận:
1.Hưng không biết toàn bộ quá trình mua bán hàng hóa của Quân, chỉ được lệnh đi lấy tiền là đi;
2.Hưng không biết đó là tiền do mua bán ma túy mà có, phải đến khi bị bắt Hưng mới biết;
3.Hưng được Quân chỉ đạo sau khi nhận tiền thì chuyển vào tk Đỗ Xuân Hoàng nhưng Hưng không biết Hoàng là ai, tại sao phải chuyển cho Hoàng và chuyển cho Hoàng nhằm mục đích gì Hưng cũng hoàn toàn không hay biết.
4.Việc Hưng khai nhận cho rằng đó là tiền mua bán ma túy mà có hoàn toàn là suy luận cá nhân khi cho rằng, chỉ có mua bán ma túy mới có giá trị lớn như vậy. Lời khai của Pạ Sợt có thể chứng minh suy luận này của Hưng là quá chủ quan, phiến diện bởi Pa Sợt nhiều lần khai nhận tại phiên tòa rằng mình có giao dịch mua bán ngà voi và sừng tê giác với các bị cáo Láu và chính Pa Sợt là người cung cấp tài khoản Đỗ Xuân Hoàng để Láu chuyển tiền thanh toán nợ mua bán ngà voi và sừng tê giác với số nợ lên đến hàng chục tỷ đồng (Pa Sợt khai khoảng 12-13 tỷ). Như vậy, giá trị giao dịch lớn hoàn toàn có thể xuất phát từ rất nhiều giao dịch mua bán khác, không chỉ có mua bán ma túy nên cách hiểu của bị cáo Hưng là chủ quan và có phần được “định hướng” cho phù hợp với nội dung của vụ án.
Luật sư nghiên cứu hành vi của bị can Hưng, nhận thấy cần cá thể hóa trách nhiệm hình sự thành giao dịch riêng biệt và có dấu hiệu của hành vi phạm “Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” theo quy định tại khoản 3 Điều 189 Bộ luật hình sự, bởi lẽ:
– Thứ nhất: Viêc bị can Hưng thực hiện hành vi giao – nhận tiền Nhân dân tệ từ địa phận Trung Quốc về Việt Nam (vận chuyển ngoại tệ qua biên giới) là dấu hiệu đầu tiên thỏa mãn tội danh “vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”;
– Thứ hai: Việc vận chuyển và quy đổi ngoại tệ của bị can Hưng từ Trung Quốc về Việt Nam đã vi phạm các quy định về sử dụng ngoại hối tại Việt Nam theo Pháp lệnh ngoại hối, Thông tư 14/VBHN-NHNN của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành ngày 04/04/2019 hướng dẫn thưc hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy việc vận chuyển Nhân dân tệ qua biên giới của Hưng thỏa mãn dấu hiệu vận chuyển ngoại tệ qua biên giới trái pháp luật của tội danh “vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”;
– Thứ ba: Bị can Hưng thực hiện việc giao nhận tiền xuất phát từ yêu cầu thuê người vận chuyển của bị can Hà Hồng Quân với mức thù lao đã được Quân và Hưng xác nhận là 50.000 đ/ 10.000 tệ (năm mươi nghìn đồng trên một vạn nhân dân tệ). Trên thực tế Hưng cũng đã nhận được 03 lần thanh toán từ Quân. Theo đó, hành vi của Hưng cấu thành độc lập với hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” của các bị can khác trong vụ án.
Bằng tất cả các căn cứ và lập luận như trên, Luật sư nhận thấy cần phải cá thể hóa hành vi phạm tội của bị can Hoàng Ngọc Hưng sang tội danh “vận chuyển ngoại tệ qua biên giới trái pháp luật” theo quy định tại Điều 189 Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên, Luật sư bào chữa chúng tôi cho rằng:
Bị cáo Hoàng Ngọc Hưng hoàn toàn không thõa mãn dấu hiệu đồng phạm với các bị cáo khác của vụ án đối với tội danh “mua bán trái phép chất ma túy”, bởi lẽ:
Bị cáo Hưng hoàn toàn không hay biết diễn biến việc mua bán ma túy giữa các bị can khác của vụ án, không có sự bàn bạc, thống nhất, hay tiếp nhận ý chí với hành vi của các “đồng phạm” nên không thỏa mãn yếu tố đồng phạm theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự đối với tội danh “mua bán trái phép chất ma túy”.
Bản thân bị can Hưng không trực tiếp tham gia, chứng kiến hay hưởng lợi ích vật chất từ việc mua bán ma túy của các bị can khác. Việc bị can Hưng khai nhận biết số tiền vận chuyển từ mua bán ma túy mà có đều là suy luận của cá nhân Hưng. Không thể dùng lời nhận tội của bị can làm chứng cứ duy nhất để buộc tội đối với bị can Hưng (vi phạm quy định tại điều 98 Bộ luật tố tụng hình sự).
Thêm vào đó, tại phiên tòa này, các bị cáo đều kêu oan sai, bị ép cung, nhục hình trong quá trình điều tra, đồng thời không có sự tham gia của người bào chữa trong quá trình hỏi cung khiến cho việc chứng minh hành vi mua bán 76 bánh heroin của các bị cáo Pà Sợt, Láu, Quân, Hưng và các bị cáo khác liên quan đến việc mua bán 76 bánh heroin chưa được làm sáng tỏ, không đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội.
Căn cứ các quy định sau:
-Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS, được hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ban hành ngày 22/12/2017 về việc thiếu chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không”;
– Quy định điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS, được hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về việc không chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định Điều 76 BLTTHS;
– Quy định điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS, được hướng dẫn tại điểm o khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về việc Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật.
Từ các lẽ trên Là Luật sư bào chữa tham gia tố tụng kính đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung, làm sáng tỏ các tình tiết trên đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, giữ vững sự nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng không gây oan sai.
Đề nghị Luật sư Bào chữa:
- Trả hồ sơ điều tra bổ sung làm rõ lời khai của các bị cáo bị đánh đập xác định cán bộ điều tra viên đánh tại PC 47 có việc đó hay không? Các lời khai không đúng với ý chí của các bị cáo hay không?
- Các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai không có luật sư, trong vụ án này là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, có mức án tù chung thân, tử hình, nhưng không hề có luật sư tham gia, hoặc luật sư chỉ định tham gia buổi làm việc cùng cqdt như vậy là vi phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo, dẫn đến lời khai của các bị cáo kêu oan và thay đổi lời khai tại phiên tòa mới xác định là đúng bản chất sự việc.
- Dựa theo lời khai mâu thuẫn chính lời khai của Quân và tại phiên tòa, quá trình thẩm vấn công khai vào ngày 11/11/2019 lời khai của Láu, Quân và Hưng khai phù hợp và khớp với nhau trong việc BC Hưng không biết nhận tiền đó là tiền ma túy. Không đúng với kết luận và cáo trạng nêu ra, thay đổi bản chất sự việc đề nghị trả hồ sơ làm rõ hành vi của Hưng về vai trò đồng phạm
- Đối với BC Hưng khi đi nhận tiền vậy có phải hành vi phạm tội khác do BLHS quy định hay không?
- Làm rõ hành vi nhận tiền của BC Hưng nhận tiền của ai? Số tiền đó là tiền gì? Khi BC Hưng không hề biết dòng tiền đó.
Trân trọng cảm ơn HĐXX!
Sau phần nghị án, rất nhiều Luật sư đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ các hành vi của các Bị Cáo, nhưng không được Hội đồng xét xử chấp nhận và tuyên án. Sau 2 ngày 12 và ngày 13 tháng 11 năm 2019 xét xử sơ thẩm vụ án đường dây mua bán, vận chuyển 148 bánh heroin xuyên quốc gia, TAND tỉnh Quảng Ninh đã tuyên án 5 bị cáo mức án tử hình, 4 bị cáo mức án chung thân và 4 bị cáo chịu án phạt 20 năm tù giam.
Tuyên án tử hình đồi với 5 bị cáo gồm: Pạ-sợt In-thạ-vông (Quốc tịch Lào), Nguyễn Bá Ngọc, Liễu Văn Láu, Vũ Đình Tuấn và Hà Hồng Quân.
Các bị cáo bị phạt tù chung thân gồm: Trần Hữu Định, Lương Dương Hải (cùng mang quốc tịch Trung Quốc) và bị cáo Nguyễn Văn Tráng.
Riêng các bị cáo: Hoàng Đức Thế, Vũ Đình Hoàn, Nguyễn Văn Hoàng và Hoàng Ngọc Hưng chịu mức án 20 năm tù giam.
Công ty Luật Dragon